Nông Quốc Chấn viết bài thơ Dọn về làng kể về quê hương của mình trong thời kỳ nổi dậy chống thực dân Pháp. Để quan sát những mất mát, đau khổ trong suốt cuộc chiến tranh cũng như những thắng lợi anh dũng, đẹp đẽ của dân tộc, dân tộc ta cũng như niềm vui giải phóng và niềm hy vọng vững vàng của tác giả về một tương lai tươi sáng. Tham khảo bài phân tích tác phẩm Dọn về làng hay nhất được Trung tâm sửa chữa điện lạnh – điện tử Limosa lựa chọn dưới đây.

Trung tâm sửa chữa điện lạnh – điện tử Limosa
Trung tâm sửa chữa điện lạnh – điện tử Limosa

1. Dàn ý phân tích tác phẩm Dọn về làng 

I. Mở bài

Giới thiệu sơ lược về thơ và văn xuôi của Nông Quốc Chân.

Khái quát tác phẩm “Trở về làng” Bài thơ lấy bối cảnh những năm tháng chiến trận đau thương, bi tráng và đầy hào hùng trên quê hương của tác giả cũng nhấn mạnh ý nghĩa sâu sắc của cuộc kháng chiến. chiến thắng cho lối sống và cư dân vùng Tây Bắc.

II. Thân bài phân tích tác phẩm Dọn về làng

a) Niềm vui và sự đắc thắng trong bốn câu đầu:

  • Tác giả sử dụng hình ảnh sống động để truyền tải kết quả của cuộc xung đột. Những hình ảnh này thấm đẫm lối suy nghĩ, cách nói của người miền núi cũng như vẻ ngoài vô cùng thẳng thắn, giản dị và chân thành của họ.
  • Sau khi được giải phóng, quê hương Cao Bằng và Lạng Sơn được yên bình một thời gian. Điều này mang lại niềm vui lạ thường cho mỗi cá nhân sống ở vùng núi.

b) Nhớ về quá khứ hào hùng, đau thương của đồng bào miền núi trong kháng chiến: 

* Khổ thơ thứ hai từ “Mấy năm qua quên tết tháng Giêng, quên rằm tháng bảy,” đến câu “Ðường đi lại vắt bám đầy chân“: ghi lại chính xác cuộc đấu tranh của người dân miền núi khi trốn giặc, đường có chân. Mọi người vẫn còn nhớ những vất vả của họ trong cuộc kháng chiến khi phải vượt rừng, lội suối. 

*Khổ thơ thứ 3 từ ” Súng nổ kia! Giặc Tây lại đến lùng” đến “Bà loà mắt không biết lối bước đi”:sự cướp bóc, tàn phá tàn nhẫn và điên cuồng của kẻ thù, chúng xé bỏ lán trại và trộm cắp. hàng may mặc.

* Khổ thơ 4: “Làm sao bây giờ: ta phải chống!” đến “Cha ơi: cha không biết nói rồi…”: nói về những hy sinh, mất mát đau lòng trong cuộc chiến đang diễn ra trước mắt chúng ta và ăn sâu vào lòng mỗi người có mặt, kể cả mỗi người cha, người anh, và đứa con trai bị giặc bắt đi đánh đập. Mặc dù trái tim họ đang đập dữ dội, nhưng trái tim của những người dũng cảm đó vẫn tiếp tục cất lên những tiếng kêu yêu nước và căm thù kẻ thù không nguôi.

*Khổ thơ 5 từ “Chúng con còn thơ, ai nuôi ai dạy?” đến câu “Băm xương thịt mày, tao mới hả.”:

Nỗi đau đớn tột cùng của gia đình người phụ nữ Tày là nỗi đau đớn tột cùng của cả nước.

*Khổ thơ từ “Hôm nay Cao – Bắc – Lạng cười vang” đến “Ruộng sẽ không thành nơi máu chảy từng vũng”:

  • Với nguồn năng lượng tiềm tàng to lớn của con người và đất đai Tây Bắc, khung cảnh trở nên sống động.
  • Ở các vùng miền núi, người dân đang bắt đầu khôi phục lại cuộc sống. Sau bao đau thương chết chóc, bao nhiêu bom đạn, bão tố, bầu trời Tây Bắc lại trong xanh, hôm nay khắp Cao-Bắc-Lang chỉ còn tiếng ồn ào. 

*Bốn câu thơ cuối

  • Hình ảnh ẩn dụ mặt trời mọc “rực rỡ” là hình ảnh tượng trưng cho một khởi đầu mới đầy hy vọng; đứa trẻ lớn lên sẽ đi theo mặt trời cách mạng, ra tiền tuyến bảo vệ đất nước với lời thề chân thành, sâu sắc: “Giết hết chúng đi, con sẽ về chăm sóc mẹ”.
  • Đó là niềm tin chắc chắn vào một chiến thắng không xa, một đất nước không có kẻ thù, một thế giới trong đó mọi người sống trong hòa bình và hạnh phúc, không có chết chóc hay đau khổ vì xung đột.

III. Kết bài

Tóm tắt giá trị và chất lượng thẩm mỹ của tác phẩm đồng thời bày tỏ suy nghĩ của mình.

Phân tích tác phẩm dọn về làng

2. Phân tích tác phẩm Dọn về làng 

Nhà thơ, nhà hoạt động văn hóa Nông Quốc Chấn là người dân tộc Tày ở Bắc Cạn. Người từ một nhà giáo dục nhân hậu, nhanh chóng thức tỉnh bởi cách mạng và học tập trong lò lửa chiến đấu, trở thành một cán bộ tận tụy, một nhà hoạt động văn hóa, một nhà thơ xuất sắc của Đảng và đất nước.

Bài thơ nổi tiếng nhất của Nông Quốc Chan là “Về làng” được viết cho chiến dịch Biên giới Thu Đông năm 1950. Lần đầu tiên tác giả dịch nguyên bản tiếng Tày sang tiếng Quan Thoại bằng thơ tự do. Bài thơ được đăng trên Tạp chí Châu Âu và đoạt giải nhì tại Liên hoan Sinh viên Thế giới năm 1951 tại Berlin. Nó cũng đã được dịch sang tiếng Pháp.

Nhà thơ ca ngợi sự trỗi dậy và trưởng thành của đất nước và các dân tộc Cao-Bắc-Lang bằng cách vẽ ra sự tương phản giữa quá khứ đau thương với niềm hạnh phúc chiến thắng, độc lập. Hãy gọi điện cho mẹ để chia sẻ tin vui chiến thắng với mẹ, bài thơ “Trở về làng” sẽ bắt đầu.

“Mẹ! Cao – Lạng hoàn toàn giải phóng

Tây bị chết bị bắt sống hàng đàn

Vệ quốc quân chiếm lại các đồn

Người đông như kiến, súng đầy như củi”.

Bài thơ gợi lại kịch bản chiến tranh Biên giới năm 1950. Trên đường 4, gọng kìm của địch bị cắt đứt và tiêu diệt. Hàng ngàn giặc Tây bị “giết và bắt sống” do quân ta chiếm đóng đồn Đông Khê và tiêu diệt quân Sắc-tông, Lo-pa.

Cậu bé tiếc nuối nhớ lại bao năm đau khổ, khốn cùng dưới ách cai trị tàn ác của quân xâm lược Pháp, trong niềm hân hoan chiến thắng. Chàng trai trẻ ấp ủ kỷ niệm về xóm cũ “sửa nhà, dọn cỏ”, để “Cày ruộng trồng lúa, ngô, khoai”:

“Mấy tháng năm qua quên tết tháng giêng, quên rằm tháng bảy,

Chạy hết núi khe, cay đắng đủ mùi”.

Những ngày lễ truyền thống cần được “quên đi”. Những phong tục, tập quán có ích của dân tộc phải bị “lãng quên”. Hương khói, bàn thờ lạnh lẽo. Cảm giác nhức nhối khi phải chiến đấu liên tục với kẻ thù: “Chạy khắp núi”. Nó mài mòn, đắng và có mùi. Làm sao tôi có thể thoát khỏi những ký ức đau buồn về một thời kỳ xảy ra nhiều thảm họa thiên nhiên và dịch bệnh? Sấm sét, mưa mù, gió dữ dội, lán lụp xụp, cửa sập, bám chặt vào chân ta. Kẻ thù đột kích, đốt lán, cướp bóc gây ra nhiều bi kịch:

“Súng nổ kia! Giặc Tây lại đến lùng,

Từng cái lán nó đốt đi trơ trụi

Nó vơ hết quần áo trong túi”…

Bài thơ ghi lại cảnh tượng hỗn loạn trong rừng dân tộc dày đặc ở vùng biên giới phía Bắc nước ta trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp như một cuốn phim. Kỹ thuật liệt kê và kể chuyện tạo ra một bầu không khí sáng tạo với nhiều yếu tố chân thực và chân thực. một người phụ nữ vừa chạy trốn giặc vừa bế con và vẫy tay chào: “Tay dắt, vai đầy túi – Bị mù không biết đi đường nào”. Người cha bị giặc sát hại dã man sau khi bị chúng bắt cóc trong vụ việc “Cha nguyền rủa người Việt, ông chống Tây”.

“Súng nổ ngay đì đùng một loạt,

Cha ngã xuống nằm lăn trên mặt đất”.

Cảnh chôn cất người chồng, người cha thân yêu đầy nước mắt:

“Lán anh em rải rác không biết nơi tìm

Không ván, không người đưa cha đi chôn cất

Mẹ tháo khăn phủ mặt cho chồng.

Con cởi áo liệm thân cho bố,

Mẹ con ẳm cha đi nằm ở chân rừng

Máu đẫm tay, nước tràn đầy mặt…”

Nhà thơ đã tỉ mỉ và bằng nhiều máu và nước mắt đã khắc họa lại tất cả những khoảnh khắc đau lòng, đau khổ đó. Kèm theo đó là tiếng hét giận dữ và khinh thường:

“Mày sẽ chết! Thằng giặc Pháp hung tàn,

Băm xương thịt mày, tao mới hả”.

Điều đó giúp chúng ta hiểu rõ hơn rằng không một lượng máu nào có thể dập tắt được sự thật hay khiến dân tộc chúng ta im lặng. Phần thứ hai của bài thơ mô tả niềm hạnh phúc được giải phóng, sự trỗi dậy của đất nước và sức mạnh dân tộc trỗi dậy vô cùng to lớn.

Cao, Bắc, Lang bao la tràn ngập đủ loại âm thanh. Có những âm thanh “cười”, “mọi người nói chuyện” và những thanh niên “ríu rít” khi họ rời trường. Có tiếng “két” như tiếng ô tô;

“Hôm nay, Cao – Bắc – Lạng cười vang,

Dọn lán, rời rừng, người xuống làng,

Người nói cỏ lay trong ruộng rậm

Cuốc đất, dọn cỏ mẹ khuyên con”.

Nếp sống của người nông dân đã được khôi phục, sự thanh thản đã trở lại: “Khói bếp bay bay trên mái tranh”. Để tạo ra làn khói xanh tuyệt đẹp vào buổi chiều đó cần rất nhiều máu và xương gãy. Nếu đếm sáu lần chữ “không” được dùng ở đầu bài thơ (không biết đi, cha không biết nói, không ai chống gậy khi bà già mất, không ai chống gậy). không biết tìm đâu, không bảng, không ai cõng) thì sáu câu đầu bài thơ đều là âm bản. (Cha đi chôn) để tượng trưng cho nỗi đau khổ tràn ngập lòng người. Từ “không” sau đó lại xuất hiện bốn lần ở đoạn thứ hai để nhấn mạnh một thực tế phản kháng, đó là sự trỗi dậy và nổi dậy của nhân dân ta, hay các dân tộc Cao – Bắc.

Từ nay không ngập cỏ lối đi.

Hổ không dám đẻ con trong vườn chuối

Quả trong vườn không lo tự chin, tự rụng

Ruộng sẽ không thành nơi máu chảy thành vũng.

Nông Quốc Chân một lần nữa đã thành công khi liệt kê, đưa ra nhiều yếu tố thực sự sinh động, chân thực để minh họa cho niềm vui chiến thắng và sự trỗi dậy của đất nước sau tự do. Bốn dòng cuối bài thơ là lời từ biệt người mẹ già của người con trai đã ra trận. Mẹ đứng phía sau, còn tôi tiến lên phía trước, quyết “đuổi” hết giặc Pháp, Mỹ.

Câu “Mặt trời mọc rõ” hàm ý sự thắng lợi của cách mạng, của kháng chiến, sự biến đổi sâu sắc, niềm vui ngày càng lớn trong lòng nhân dân. Mẹ đã nói với tình yêu và lòng trắc ẩn lớn lao như vậy. Chuyến đi đầy lạc quan và đầy tinh thần:

“Mặt trời lên sáng rõ rồi mẹ ạ!

Con đi bộ đội, mẹ ở lại nhà,

Giặc Pháp, Mỹ còn giết người, cướp của trên đất ta

Đuổi hết nó đi, con sẽ về trông mẹ”.

Chất thơ giản dị, mộc mạc của “Dọn về làng” với nhiều yếu tố nhạy cảm được lựa chọn kỹ lưỡng chính là điều khiến nó trở nên đẹp đẽ. Một phương pháp rất thẳng thắn, cảm động và duyên dáng để thể hiện nỗi đau buồn chiến tranh, hình ảnh ông bà, cha mẹ trong lửa đau khổ, niềm vui tự do và viễn cảnh một dân tộc tái sinh.

Trong thời kỳ chống Pháp, “Dọn về làng” là một trong những thành tựu đáng tự hào nhất của thơ. Hơn thế nữa, đó là lời bài hát về loài hoa dại yêu thích của một đứa trẻ người Tày, đẹp đẽ và thơm ngát. Hơn năm mươi năm sau bài thơ vẫn để lại cho chúng ta nhiều cung bậc cảm xúc.

Phân tích tác phẩm dọn về làng

Hy vọng những thông tin dàn ý phân tích trên sẽ giúp bạn nắm được kỹ lưỡng các bước phân tích hay nhất về tác phẩm Dọn về làng và những đặc điểm nổi bật của tác phẩm. Nếu bạn còn thắc mắc vui lòng gọi đến HOTLINE 1900 2276 để được hỗ trợ và hãy ghé thăm website của Trung tâm sửa chữa điện lạnh – điện tử Limosa để đọc thêm các bài viết thông tin hữu ích liên quan về phân tích tác phẩm Dọn về làng  được đề cập ở trên bài viết nhé

Trung tâm sửa chữa Limosa
Trung tâm sửa chữa Limosa
Đánh Giá
hotline